giai-quyet-tranh-chap-lao-dong

Trình tự thủ tục giải quyết tranh chấp lao động

Giải quyết tranh chấp lao động Về thủ tục, tranh chấp lao động cá nhân được giải quyết qua hai bước:

1) Hoà giải tại hoà giải viên;

2) Giải quyết tại hội đồng trọng tài lao động hoặc toà án theo thủ tục tố tụng.

Thứ nhất, giải quyết cá nhân thông qua hoà giải viên lao động. Các bên tranh chấp có thể gửi đơn yêu cầu đến hoà giải viên lao động hoặc gửi đến cơ quan chuyên môn về lao động thuộc uỷ ban nhân dân, cơ quan chuyên môn về lao động thuộc uỷ ban nhân dân là một đầu mối tiếp nhận yêu cầu giải quyết và có trách nhiệm phân loại tranh chấp để chuyển yêu cầu giải quyết đến cơ quan có thẩm quyền trong thời hạn 5 ngày làm việc kể từ ngày nhận được yêu cầu (Điều 181 Bộ luật lao động năm 2019).

Pháp luật cũng quy định hoà giải viên lao động phải kết thúc việc hoà giải trong thời gian 5 ngày làm việc kể từ ngày nhận được yêu cầu hoà giải (Khoản 2 Điều 188 Bộ luật lao động năm 2019).

Tại phiên họp hoà giải phải có mặt các bên hoặc đại diện của các bên tranh chấp, các bên cũng có thể uỷ quyền cho người khác tham gia phiên họp hoà giải. Khi mở phiên họp, hoà giải viên có trách nhiệm hướng dẫn, hỗ trợ các bên thương lượng, nếu các bên thương lượng, thoả thuận thành công thì hoà giải viên lao động lập biên bản hoà giải thành công. Nếu các bên không thoả thuận được thì hoà giải viên tiếp tục đưa ra phương án hoà giải để các bên xem xét. Nếu các bên nhất trí với phương án hoà giải mà hoà giải viên đưa ra, hoà giải viên lập biên bản hoà giải thành ghi nhận sự thống nhất ý chí của các bên.

Trường hợp hai bên không chấp nhận phương án hoà giải hoặc một trong các bên đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lí do chính đáng, hoà giải viên lập biên bản hoà giải không thành. Biên bản phải có chữ kí của bên tranh chấp có mặt và hoà giải viên. Bản sao biên bản hoà giải thành hoặc hoà giải không thành phải được gửi cho hai bên tranh chấp trong thời hạn 01 ngày làm việc, kể từ ngày lập biên bản (Khoản4 Điều 188 Bộ luật lao động năm 2019).

Thứ hai, giải quyết tranh chấp tại hội đồng trọng tài lao động.

Trên cơ sở đồng thuận, các bên tranh chấp có quyền yêu cầu hội đồng trọng tài lao động giải quyết tranh chấp trong trường hợp: không bắt buộc phải qua thủ tục hòa giải quy định tại khoản 1 Điều 188 Bộ luật lao động năm 2019 hoặc trường hợp hết thời hạn hòa giải quy định mà hòa giải viên lao động không tiến hành hòa giải hoặc trường hợp hòa giải không thành theo quy định tại khoản 4 Điều 188. Bên cạnh đó, để đảm bảo quyền lợi cho các bên, lúật đã quy định cụ thể thời hạn giải quyết tranh chấp của hội đồng trọng tài, theo đó:

1) Trong thời hạn 07 ngày làm việc kể từ ngày nhận được yêu cầu giải quyết tranh chấp theo quy định tại khoản 1 Điều 189 Bộ luật lao động năm 2019, ban trọng tài lao động phải được thành lập để giải quyết tranh chấp;

2) Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày ban trọng tài lao động được thành lập, ban trọng tài lao động phải ra quyết định về việc giải quyết tranh chấp và gửi cho các bên tranh chấp. Trường hợp hết thời hạn 07 ngày theo quy định mà ban trọng tài lao động không được thành lập hoặc hết thời hạn 30 ngày quy định khoản 3 Điều 189 Bộ luật lao động năm 2019 mà ban trọng tài lao động không ra quyết định giải quyết tranh chấp thì các bên có quyền yêu cầu toà án giải quyết. Đồng thời, nếu một trong các bên không thi hành quyết định giải quyết tranh chấp của ban trọng tài lao động thì các bên có quyền yêu càu toà án giải quyết.

Thứ ba, giải quyết tranh chấp cá nhân tại toà án. Trường hợp tranh chấp không bắt buộc phải qua hoà giải; hết thời hạn hoà giải mà không tiến hành hoà giải; hoà giải không thành hoặc một trong hai bên không thực hiện các thoả thuận trong biên bản hoà giải thì mỗi bên tranh chấp có quyền yêu cầu hội đồng trọng tài lao động hoặc toà án giải quyết. Trường hợp các bên lựa chọn phương thức giải quyết tại hội đồng trọng tài thì trong thời gian hội đồng trọng tài giải quyết tranh chấp các bên không được đồng thời yêu cầu toà án giải quyết, chỉ trong trường họp ban trọng tài không được thành lập hoặc hết thời hạn giải quyết mà

không ra quyết định giải quyết tranh chấp hoặc một trong các bên không thi hành quyết định giải quyết tranh chấp của ban hoà giải thì các bên có quyền yêu cầu toà án giải quyết. Đương nhiên, toà án chỉ thụ lí những vụ việc đúng thẩm quyền và đảm bảo yêu cầu về thời hiệu giải quyết. Thời hiệu yêu cầu giải quyết tranh chấp cá nhân là 1 năm kể từ ngày phát hiện ra hành vi mà bên tranh chấp cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị vi phạm. Việc giải quyết tranh chấp tại toà án tuân theo quy định về trình tự, thủ tục tố tụng quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

giai-quyet-tranh-chap-lao-dong

Thủ tục giải quyết

1. Thủ tục giải quyết tập thể về quyền

Về trình tự, thủ tục tranh chấp tập thể về quyền được giải quyết qua thủ tục:

1) Hoà giải tại hoà giải viên lao động,

2) Hội đồng trọng tài lao động hoặc giải quyết tại toà án nhân dân.

Khác với tranh chấp cá nhân có những trường hợp đặc biệt riêng để có thể bỏ qua bước giải quyết, ở tranh chấp tập thể về quyền điều này không đặt ra, đồng nghĩa với việc để giải quyết được yêu cầu, mục đích của mình, các bên phải tuân thủ trình tự, thủ tục theo thứ tự các bước, các giai đoạn giải quyết.

Thứ nhất, hoà giải tại hoà giải viên lao động. Việc giải quyết thông qua thủ tục hoà giải của hoà giải viên lao động trước khi yêu cầu hội đồng trọng tài hay toà án giải quyết là bắt buộc đối với giải quyết

Theo quy định tại Điều 192 Bộ luật lao động năm 2019 thì thẩm quyền giải quyết tranh chấp của hoà giải viên lao động bao gồm tất cả các tranh chấp, trong đó có tranh chấp tập thể về quyền. Thủ tục và nội dung giải quyết của hoà giải viên lao động với tranh chấp tập thể về quyền tương tự như giải quyết tranh chấp cá nhân. Kết quả cũng là biên bản hoà giải thành nếu các bên thoả thuận được hoặc nhất trí với phương án hoà giải của hoà giải viên. Biên bản hoà giải không thành sẽ được lập trong trường hợp các bên không nhất trí với phương án hoà giải của hoà giải viên hoặc triệu tập họp lệ đến lần thứ hai mà một bên tranh chấp vẫn vắng mặt không có lí do chính đáng. Đối với các tranh chấp về sự khác nhau trong hiểu và thực hiện quy định pháp luật hoặc người sử dụng lao động có hành vi phân biệt đối xử, thao túng tổ chức đại diện người lao động, vi phạm nghĩa vụ thương lượng thiện chí (điểm b, c khoản 2 Điều 179 Bộ luật lao động năm 2019) mà xác định có hành vi vi phạm pháp luật thì hoà giải viên lập biên bản và chuyển hồ sơ, tài liệu đến cơ quan có thẩm quyền xem xét, xử lí theo quy định pháp luật.

Thứ hai, giải quyết tại hội đồng trọng tài lao động hoặc toà án.

Trong trường hợp hai bên tranh chấp tập thể về quyền tiến hành hoà giải tại hoà giải viên lao động không thành hoặc hoà giải thành nhưng một bên không thực thi biên bản hoà giải hoặc hết hạn giải quyết theo quy định mà hoà giải viên lao động không giải quyết vụ việc thì hai bên có thể thoả thuận yêu cầu hội đồng trọng tài lao động giải quyết ữanh chấp hoặc một trong hai bên hoặc cả hai bên được yêu cầu toà án giải quyết tranh chấp.

Trong thời hạn 7 ngày làm việc kể từ ngày nhận được yêu cầu giải quyết, ban trọng tài lao động phải được thành lập để giải quyết tranh chấp. Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày được thành lập ban trọng tài phải ra quyết định về việc giải quyết franh chấp và gửỉ cho các bên tranh chấp. Trường hợp phát hiện ra tranh chấp có hành vi vi phạm pháp luật thì không ra quyết định giải quyết mà lập biên bản, chuyển hồ sơ, tài liệu tới cơ quan có thẩm quyền xem xét, xử lý theo quy định pháp luật. Đương nhiên trong thời gian giải quyết theo thủ tục trọng tài, các bên không được đồng thời yêu cầu toà án giải quyết tranh chấp (Điều 192, Điều l93 Bộ luật lao động năm 2019; Điều 193 Bộ luật lao động năm 2019).

Trường hợp ban trọng tài không được thành lập theo thời hạn quy định để giải quyết vụ tranh chấp hoặc hết thời hạn giải quyết mà không ra quyết định giải quyết hoặc trường hợp một trong các bên không thi hành quyết định giải quyết tranh chấp của ban trọng tài lao động thì các bên có quyền yêu cầu toà án giải quyết (Điều 193 Bộ luật lao động năm 2019). Việc thụ lí tại toà chỉ đặt ra với những tranh chấp còn thời hiệu yêu cầu giải quyết là 01 năm kể từ ngày phát hiện ra hành vi mà mỗi bên tranh chấp cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị vi phạm. Thông thường, toà án nhân dân cấp tỉnh nơi xảy ra tranh chấp là toà án có thẩm quyền giải quyết. Việc giải quyết tập thể về quyền tại toà theo trình tự, thủ tục tố tụng quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Quyết định của toà án là quyết định cuối cùng về vụ tranh chấp.

2. Thủ tục giải quyết tranh chấp lao động tập thể về lợi ích

Về trình tự thủ tục, tranh chấp tập thể có trình tự thủ tục giải quyết gồm 2 bước:

1) Hoà giải tại hoà giải viên lao động và

2) Giải quyết tại hội đồng trọng tài lao động.

Thứ nhất, hoà giải tại hoà giải viên lao động

Thủ tục giải quyết tranh chấp tập thể về lợi ích tại hoà giải viên lao động tương tự như thủ tục giải quyết tranh chấp cá nhân, tập thể về quyền. Kết quả của bước hoà giải này là biên bản hoà giải thành hoặc biên bản hoà giải không thành. Trường hợp hoà giải thành, biên bản hoà giải thành có giá trị pháp lí như thoả ước lao động tập thể tại doanh nghiệp. Trong trường hợp hoà giải không thành hoặc hết thời hạn hoà giải mà hoà giải viên không tiến hành hoà giải hoặc một trong hai bên không thực hiện thoả thuận trong biên bản hoà giải thành thì có quyền lựa chọn 1 trong 2 phương thức yêu cầu hội đồng trọng tài lao động giải quyết hoặc tổ chức đại diện người lao động tiến hành đình công.

Thứ hai, giải quyết tranh chấp tại hội đồng họng tài lao động

Trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp tập thể về lợi ích của hội đồng trọng tài lao động được quy định tại Điều 196 và Điều 197 Bộ luật lao động năm 2019. Trên cơ sở đồng thuận, các bên tranh chấp có quyền yêu cầu hội đồng trọng tài giải quyết, trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu giải quyết tranh chấp ban trọng tài lao động phải được thành lập và trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày thành lập, ban trọng tài phải ra quyết định về việc giải quyết và gửi cho các bên. Khi lựa chọn phương thức giải quyết qua hội đồng trọng tài, tổ chức đại diện người lao động không được tiến hành đình công trong thời gian hội đồng trọng tài giải quyết tranh chấp.

Trong trường hợp hết thời hạn quy định mà ban trọng tài lao động không được thành lập hoặc không ra quyết định về vụ việc trong thời hạn luật định hoặc người sử dụng lao động không thực hiện quyết định giải quyết tranh chấp của ban trọng tài, thì tổ chức đại diện người lao động là bên tranh chấp có quyền tiến hành thủ tục đình công.