thoi-han-so-huu-phan-mem

Thời Hạn Sở Hữu Phần Mềm Theo Quy Định Của Pháp Luật

Trong dự thảo báo cáo 06 tháng đầu năm 2022 của Bộ Thông tin và Truyền thông cho biết, số doanh nghiệp công nghệ thông tin của Việt Nam đến nay ước đạt 67.300, đạt tỷ lệ xấp xỉ khoảng 0,69 doanh nghiệp/1.000 dân và doanh thu mà các doanh nghiệp công nghệ thông tin của Việt Nam tạo ra đạt mức 72,5 tỷ USD trong 06 tháng đầu năm. Một phần lớn trong số doanh thu đó đến từ việc gia công phần mềm cho các đơn vị tại nước ngoài hoặc doanh thu từ sản phẩm phần mềm của chính các doanh nghiệp Việt Nam. Để khai thác tối đa những lợi ích và sự hiệu quả mà các phần mềm do cá nhân hoặc doanh nghiệp Việt Nam đem lại thì một trong những vấn đề chúng ta cần phải nắm rõ là thời hạn sở hữu phần mềm theo quy định của pháp luật sẽ kéo dài bao lâu, điều này sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới các quyền và lợi ích hợp pháp chúng ta được thực hiện đối với các sản phẩm phần mềm đã được sản xuất. Nhằm giúp các cá nhân, tổ chức sở hữu phần mềm hiểu rõ về thời hạn sở hữu phần mềm của bản thân là bao lâu theo quy định pháp luật Việt Nam, mời các bạn hãy cùng tìm hiểu thông qua bài viết dưới đây của LTT & Lawyers.

Việc đặt ra vấn đề về thời hạn sở hữu phần mềm sẽ giúp cho doanh nghiệp/chủ sở hữu xác định được chính xác thời hạn mà mình có thể độc quyền sở hữu trí tuệ đối với phần mềm đó, đồng thời, làm căn cứ để bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu đối với sản phẩm phần mềm mà họ đã sáng tạo ra trước công chúng, người thứ ba thông qua sự công nhận và xác nhận về quyền hợp pháp của cơ quan nhà nước cho doanh nghiệp/chủ sở hữu đó.

1. Định dạng bảo hộ quyền sở hữu phần mềm theo quy định pháp luật về sở hữu trí tuệ tại Việt Nam hiện nay

Thông thường, phần mềm sẽ được đăng ký bảo hộ dưới dạng một chương trình máy tính hoặc bí mật kinh doanh tùy thuộc vào chiến lược kinh doanh của từng tổ chức, cá nhân sở hữu loại sản phẩm này.

Thứ nhất, theo quy định tại khoản 1 Điều 22 Luật Sở hữu trí tuệ 2005[1] thì chương trình máy tính là tập hợp các chỉ dẫn được thể hiện dưới dạng các lệnh, các mã, lược đồ hoặc bất kỳ dạng nào khác, khi gắn vào một phương tiện mà máy tính đọc được, có khả năng làm cho máy tính thực hiện được một công việc hoặc đạt được một kết quả cụ thể. Chương trình máy tính được bảo hộ như tác phẩm văn học, dù được thể hiện dưới dạng mã nguồn hay mã máy. Theo đó, khoản 2 Điều 13 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 có quy định, sản phẩm phần mềm sẽ được bảo hộ quyền tác giả với loại hình chương trình máy tính khi có tác phẩm đã được định hình bởi một hình thức vật chất nhất định và được công bố lần đầu tiên tại Việt Nam mà chưa được công bố ở bất kỳ nước nào hoặc được công bố đồng thời tại Việt Nam trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày tác phẩm đó được công bố lần đầu tiên ở nước khác; tổ chức, cá nhân nước ngoài có tác phẩm được bảo hộ tại Việt Nam theo điều ước quốc tế về quyền tác giả mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.

Thứ hai, theo quy định tại khoản 23 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 thì bí mật kinh doanh là thông tin thu được từ hoạt động đầu tư tài chính, trí tuệ, chưa được bộc lộ và có khả năng sử dụng trong kinh doanh. Theo đó, Điều 84 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 quy định bí mật kinh doanh sẽ được bảo hộ nếu đáp ứng các điều kiện sau đây:

  • Không phải là hiểu biết thông thường và không dễ dàng có được;
  • Khi được sử dụng trong kinh doanh sẽ tạo cho người nắm giữ bí mật kinh doanh lợi thế so với người không nắm giữ hoặc không sử dụng bí mật kinh doanh đó; và
  • Được chủ sở hữu bảo mật bằng các biện pháp cần thiết để bí mật kinh doanh đó không bị bộc lộ và không dễ dàng tiếp cận được.
bao-ho-so-huu-tri-tue-phan-mem

2. Thời hạn sở hữu phần mềm theo quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ tại Việt Nam hiện nay

Như phân tích ở trên, phần mềm hiện nay thường được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ dưới nhiều dạng thức khác nhau. Do vậy, tùy vào loại dạng thức của phần mềm đã được chủ sở hữu bảo hộ quyền sở hữu trí tuệthời hạn sở hữu phần mềm theo quy định của pháp luật có sự khác biệt nhất định.

Trường hợp phần mềm được bảo hộ quyền tác giả dưới dạng chương trình máy tính: tại Điều 27 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, thời hạn độc quyền sở hữu phần mềm được quy định như sau:

  • Đối với các quyền nhân thân theo quy định tại khoản 1, 2 và 4 Điều 19 của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 như đặt tên cho phần mềm; đứng tên thật hoặc bút danh trên phần mềm; được nêu tên thật hoặc bút danh khi phần mềm được công bố, sử dụng và bảo vệ sự toàn vẹn của phần mềm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả, phần mềm sẽ được bảo hộ vô thời hạn.
  • Đối với quyền công bố phần mềm hoặc cho phép người khác công bố phần mềm theo quy định tại khoản 3 Điều 19 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 và các quyền tài sản theo quy định tại Điều 20 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 (làm chương trình máy tính/phần mềm phái sinh từ phần mềm của chủ sở hữu; sao chép chương trình của phần mềm; phân phối, nhập khẩu bản gốc hoặc bản sao phần mềm; truyền đạt chương trình máy tính/phần mềm đến công chúng bằng phương tiện hữu tuyến, vô tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác; cho thuê bản gốc hoặc bản sao chương trình máy tính), phần mềm sẽ được bảo hộ suốt cuộc đời tác giả và năm mươi năm tiếp theo năm tác giả chết; trường hợp tác phẩm có đồng tác giả thì thời hạn bảo hộ chấm dứt vào năm thứ năm mươi sau năm đồng tác giả cuối cùng chết. Thời hạn bảo hộ sẽ chấm dứt vào thời điểm 24 giờ ngày 31 tháng 12 của năm chấm dứt thời hạn bảo hộ quyền tác giả.

Như vậy, có thể thấy, đối với tác giả/những người viết ra phần mềm thì quyền liên quan đến nhân thân của họ đối với tác phẩm như các quyền liên quan đến tên tác phẩm và sự ghi nhận sáng tạo sẽ được bảo hộ vô thời hạn, điều này sẽ giúp cho các tác giả/người viết ra phần mềm được ghi nhận công sức sáng tạo và bảo vệ danh dự, uy tín của mình thông qua việc bảo vệ tác phẩm. Với quyền công bố tác phẩm và các quyền liên quan đến tài sản thì thời hạn 50 năm sau khi tác giả/tác giả cuối cùng chết là khoảng thời gian hợp lý để các tác giả, người thừa kế quyền của tác giả có thể khai thác tối đa lợi ích từ phần mềm được viết ra trước đó.

Tuy nhiên, khi hết thời hạn 50 năm sau khi tác giả cuối cùng chết, các cá nhân tổ chức khác có thể khai thác các quyền kinh tế của tác giả, quy định này là phù hợp vì sau khi tác giả/gia đình tác giả đã khai thác được tối đa lợi ích thì việc loại bỏ quyền kinh tế đối với các phần mềm sẽ đem lại lợi ích cho các cá nhân tổ chức khác trong xã hội. Mặc dù vậy, đối với lĩnh vực phát triển nhanh và liên tục thay đổi như công nghệ thông tin thì thời hạn bảo hộ như trên là đủ để tác giả và người thừa kế quyền từ tác giả khai thác tối đa lợi ích từ sản phẩm và các cá nhân, tổ chức khác khó có thể khai thác được lợi ích kinh tế từ phần mềm sau khi hết thời hạn bảo hộ.

Trường hợp phần mềm được bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp dưới dạng bí mật kinh doanh:

Do tính chất được bảo hộ tự động mà không cần phải đăng ký bảo hộ với cơ quan nhà nước có thẩm quyền, vì vậy, trong trường hợp này, phần mềm sẽ được sở hữu và bảo hộ vô thời hạn cho đến khi bị công khai hay không còn được xem là bí mật kinh doanh của doanh nghiệp/chủ sở hữu.

Cần lưu ý rằng, thời hạn sở hữu phần mềm của chủ sở hữu sẽ phụ thuộc vào việc liệu phần mềm đó có được bảo hộ dưới dạng bí mật kinh doanh, phần mềm đó chỉ được bảo hộ khi đảm bảo các điều kiện sau đây theo quy định tại Điều 84 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 như LTT & Các Cộng Sự đã phân tích ở Mục 1 nêu trên.

Để nhận tư vấn chi tiết về nội dung này, quý khách vui lòng liên hệ với chúng tôi theo thông tin dưới đây:

Email: info@lttlawyers.com

Hotline: 0996901888

Website: https://lttlawyers.com/vi/trang-chu/

TRỤ SỞ CHÍNH (+84) 28 6270 7278 Lầu 3, 185 Đường Cô Bắc, Phường Cô Giang, Quận 1, TP. Hồ Chí Minh.

VĂN PHÒNG HÀ NỘI (+84) 24 7300 1255 Phòng 637, Tầng 6, Tòa nhà CIC, Số 2 Ngõ 219 Trung Kính, Phường Yên Hòa, Quận Cầu Giấy, Thành phố Hà Nội.VĂN PHÒNG ĐÀ NẴNG (+84) 905 783 785 02 Đường Đoàn Nhữ Hài, Phường Hòa Khê, Quận Thanh Khê, TP. Đà Nẵng.


[1] Trong phạm vi bài viết này cụm từ “Luật Sở hữu trí tuệ 2005” được hiểu là văn bản Luật hợp nhất của Luật Sở hữu trí tuệ số 50/2005/QH11, được sửa đổi, bổ sung bởi các Luật: Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ số 36/2009/QH12, Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật Sở hữu trí tuệ số 42/2019/QH14 và Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ số 07/2022/QH15.